Kinh điển Phật giáo Nguyên thủy nói đến hai loại giải thoát, cittavimutti và paññāvimutti. Tu tập thiền định làm cho tâm được giải thoát khỏi các phiền não bậc trung - những tâm trạng khiến cho tâm bị khuấy đảo hay dao động và khiến nó không còn trong sáng để phản chiếu và có được những quyết định sáng suốt. Tâm bị chế ngự bởi phiền não cũng giống như máy tính bị nhiễm virus vậy. Tâm không được giải phóng cũng giống như cái máy tính có quá nhiều chương trình cũ không còn xài tốt nữa, nó trở thành gánh nặng khiến cho tâm không nhẹ nhàng và nhu nhuyễn, khó sử dụng.
Nhiều khi tâm của chúng sinh cũng đầy các ý tưởng không tương hợp, chống đối lẫn nhau và khiến cho người có cái tâm như vậy cảm thấy rất bức xúc, khó chịu. Nặng thì đi đến trầm cảm, nhẹ thì cũng cảm thấy bất an, phiền não và bối rối không tìm ra lối thoát. Trong tình trạng như vậy, ngồi xuống hay đi bộ chậm rãi, có chánh niệm là rất cần thiết để làm lắng dịu cái tâm đang loạn. Chỉ khi tu tập định tâm đến mức độ khiến cho tâm yên lặng hoàn toàn (samatha), như mặt hồ phẳng lặng hay như bầu trời trong sáng không một gợn mây, thì trí tuệ mới hiển lộ.
Con đường tu tập tâm là áp dụng những phương pháp để loại bỏ ra khỏi tâm những phẩm chất xấu, chiếu ánh sáng vào phần ‘tối’ của tâm thức. Khi có niềm tin chân chánh, tâm sẽ không bị lôi kéo vào những niềm tin mù quáng thiếu cơ sở mang tính mê tín dị đoan. Khi đã có chánh tín nhờ học hỏi và duyên lành, con người sẽ có động lực sống tốt, sống có ý nghĩa, và làm hiển lộ phần sáng của tâm thức mà bản chất vốn là chiếu sáng và thanh tịnh không uế nhiễm. Thiền định (samādhi) từng bước một giải phóng tâm ra khỏi các loại phiền não nghiệp chướng, và trả tâm về trạng thái trong sáng chiếu diệu (pabhassa cittam) như nó vốn có. Một cái tâm đã rũ sạch các phiền não cấu uế thì được gọi là tâm giải thoát (citta vimutti). Đây cũng là trạng thái thiền định, khi tâm thức đã lắng dịu, khi các nhiệt động do tham, sân, si, hoài nghi, trạo hối, lo lắng bất an và các trạng thái bất thiện khác đã tạm thời được dập tắt.