Ở đây không nói đến loại tái sinh đó; chỉ nói đến loại tái sinh mà thân xác con người vẫn còn đó, nhưng phần tâm thức thì đã chuyển giao, mà bước ngoặt quan trọng nhất trong sự chuyển giao này là “chết”, nhà thiền gọi là “Tuyệt hậu tái tô”. Một sự tái sinh mới xuất hiện trong đời sống con người mà thân xác thì vẫn chưa chết. Một sự thay đổi âm thầm trong một thân xác chưa thay đổi, dưới sự kiểm soát của “một cái’ không thay đổi, như kinh Lăng nghiêm nói: “Chẳng dừng trụ gọi là khách, dừng trụ là chủ. Do cái chẳng dừng trụ mà gọi là khách... Lắng lặng, gọi là hư không. Diêu động, gọi là bụi bặm. Do cái diêu động đó mà gọi là trần”1.
Thiền sư Bạch Ẩn, ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần theo mẹ đi nghe một cao tăng thuộc phái Nhật Liên giảng về tám tầng địa ngục, ông đã run rẩy trong cơn kinh hoảng. Đêm đó, nằm trong vòng tay mẹ, ông vẫn không hết sợ hãi khi nghĩ đến việc mình phải vào địa ngục.
Lần khác, khi vào phòng tắm, nhìn thấy nước được đun dưới lửa cháy bùng, ông hoảng hốt hét lớn. Nghĩ đến việc mình phải vào hỏa ngục, ông cầu mẹ cách giải quyết.
Ông được mẹ dạy phải thờ phụng vị thần của đền Katino.
Ông đã thực hành việc này rất nghiêm túc.
Hàng ngày, vào khoảng 2 giờ sáng, ông đến phòng thờ thần Tenjin, niệm danh hiệu ngài liên tục và cầu xin thoát khỏi địa ngục. Ngay đêm đầu tiên ông đã thuộc lòng cuốn kinh Tenjin. Nhưng do một việc nhỏ xảy ra cho bản thân, ông nhận ra “Chuyện nhỏ như vậy Tenjin còn chẳng thể che giấu cho ta, làm thế nào có thể trông cậy ngài giúp ta thoát lửa địa ngục?”. Nghĩ rồi, ông từ bỏ Tenjin.
Khi nghe “Không có vị thánh nào của đạo Phật hay Thần đạo có thể sánh kịp với năng lực vô biên của Quán Thế Âm”2 ông bắt đầu nương tựa vào Quán Thế Âm và tụng kinh Phổ môn. Chỉ vài ngày sau ông đã thuộc hết phẩm Phổ môn. Ý tưởng xuất gia bắt đầu nhen nhúm khi chứng kiến cảnh Nissin chịu đựng khổ hình một cách an nhiên.
“Cái mũ sắt của Nissin Shunin” là một vở kịch nói về tác dụng của việc trì kinh Pháp hoa. Vở kịch ấy diễn tả lại cảnh lãnh chúa Tokimun hỏi một vị Tăng phái Nhật Liên rằng: “Một người đang thọ trì kinh Pháp hoa có cảm thấy cái nóng của lửa cháy không?”. Nissin đáp: “Nếu hành trì đúng, người ta có thể vào trong lửa cháy mà không tổn hại, có thể vào trong nước mà không chết chìm”. Nghe vậy, lãnh chúa cho đốt một lưỡi cày, siết chặt vào người Nissin. Trên đầu, ông cho Nissin đội một chảo gang nóng đỏ. Nissin vẫn mỉm cười tự tại. Khán giả rúng động và đều nhất loạt hô to danh hiệu “Nam-mô Diệu pháp Liên hoa kinh, Nam-mô Diệu pháp Liên hoa kinh…” khi vở kịch chấm dứt.
Do ý tưởng sẽ xuất gia, ông để hết thời gian cho việc học kinh Phật, đọc thơ kệ thiền v.v… Tâm thức sợ hãi địa ngục biến mất, nhường chỗ cho những ngày tháng miệt mài với công phu và kinh luận. Ông xuất gia khi được 14 tuổi.
Không ít người đã có những sự tái sinh tương tợ. “Đang trầm luân trong bế tắc đau khổ, bỗng nhận được pháp, thấy cuộc đời bừng lên trong hy vọng và thấy mình như được sinh ra một lần nữa”. Nhiều người đã có những cuộc tái sinh như vậy. Nó được coi là một bước ngoặt trong đời sống một con người.
Có những người mà tâm
thức tái sinh ở thể dạng nhẹ. Một sự tái sinh mà trong đó, tâm thức
chuyển biến từ một cuộc sống không ý thức thiện ác sang có ý thức
thiện ác. Một người bỏ công việc sát sinh và chuyển sang một nghề
lương thiện. Hỏi vì sao? Họ nói không muốn phạm tội. Họ muốn có một
đời sống thanh thản. Họ tin vào nhân quả và thay đổi cuộc sống của
họ theo những gì mà họ nghĩ. Đương nhiên, phần tâm thức phải có thay
đổi thì hành vi mới thay đổi được. Nhưng sự thay đổi chỉ dừng ngang
việc thiện ác. Dòng tâm thức vẫn tương tục không dứt và họ không ý
thức được điều đó. Không biết rằng tâm thức mình đang tương tục không
dứt. Họ chú trọng vào hành vi bên ngoài là chính. Suy nghĩ, tính
toán, phân biệt vẫn là những gì quen thuộc và thường tình với họ.
Tuy vậy, việc chuyển ác thành thiện là một bước ngoặt khá lớn trong
đời sống một con người, nhất là vào thời đại này, thời đại mà
chúng sinh xuôi theo nghiệp ác thì nhiều, vận hành nghiệp thiện khá
khó khăn. Bước ngoặt đó chính là cái nhân để họ không phải tái sinh
vào những cảnh giới khổ sau này.
Có những người tâm thức tái sinh ở dạng rõ nét hơn. Họ thích câu niệm Phật. Bất cứ khi nào có thể, họ đều niệm Phật. Những niệm chúng sinh được thay thế bằng một danh hiệu Phật. Đó là cái nhân cho một sự tái sinh về thế giới Phật hay cảnh giới lành. Tuy vậy, họ không ý thức được về dòng tâm thức đang tuôn chảy của mình, nhưng sự thay đổi đã diễn ra tương đối liên tục ở tâm. Niệm chúng sinh chết đi nhường chỗ cho những danh hiệu Phật. Dòng tương tục vẫn còn đó, nhưng niệm của nó không còn là niệm chúng sinh mà là niệm Phật.
Thiền chánh phái có nhiều pháp môn: Tham thoại đầu, Mặc chiếu, Thiền Tịnh song tu v.v… Phương tiện thì nhiều, chung quy là chỉ làm sao chết đi những tâm niệm chúng sinh, giúp chúng sinh trở về tâm chân thật có sẵn trong mỗi người. Phần tâm được gọi là tâm Phật đó, không phân biệt mà phân biệt, phân biệt mà không phân biệt. Một khi đã nói đến tâm Phật, lấy việc ngộ nhập Phật tâm làm tông chỉ, là nói đến Tổ sư thiền. Các phương tiện nêu trên đều thuộc Tổ sư thiền. Tổ sư thiền hay các loại thiền mà cổ đức gọi là thiền Tiểu thừa hay Trung thừa, phương tiện hành trì đều nhằm dứt bặt dòng tâm thức, nhưng do đích đến khác nhau nên kết quả thành khác nhau. Quả vị của Thanh văn và Duyên giác là A-la-hán và Bích chi Phật. Chư vị giải thoát nhưng chưa nhận ra tâm Phật của chính mình. Chưa thấy được sự mộng ảo của thế giới này. Trong khi quả vị của Bồ-tát là Phật quả. Sống được với tâm chân thật thì nhận ra không gì không từ tâm sinh, mọi thứ đều là hư ảo, sinh tử Niết-bàn như hoa đốm trong hư không, tâm chính là tánh của tất cả pháp3.
A-la-hán và Bích chi
Phật, dòng hiện hành tương tục không còn sinh khởi. Phần đoạn sinh tử
của chúng sinh chấm dứt. Chỉ còn phần Biến dịch sinh tử của thánh
nhân đang âm thầm chuyển dịch bên trong. Chư vị không còn tái sinh ở
thế giới chúng sinh nữa. Có chăng chỉ do hạnh nguyện độ sinh.
ĐPNN